22-06-2010
Nhân sâm có nhiều tác dụng
Nhân sâm có tác dụng gia tăng quá trình ức chế và hưng phấn vỏ não, làm phục hồi bình thường khi hai quá trình này bị rối loạn, saponin trong nhân sâm chỉ với một lượng nhỏ, chủ yếu dùng để làm hưng phấn trung khu thần kinh, còn với lượng lớn có tác dụng ức chế. Nhân sâm có tác dụng tăng sức lao động trí óc và chân tay, chống mỏi mệt, làm tăng hiệu suất hoạt động tư duy và thể lực. Nó có thể chống lão hóa, cải thiện chức năng của não ở người lớn tuổi, tăng khả năng tập trung trí tuệ, tăng trí nhớ.
Nhân sâm giúp cơ thể tăng khả năng thích nghi, phòng vệ đối với những kích thích có hại. Nó vừa làm hồi phục huyết áp ở cơ thể choáng do mất máu, vừa có thể làm hạ huyết áp ở người huyết áp cao, chống ACTH làm tuyến thượng thận phì đại, chống corticoid làm teo thượng thận.
Nhân sâm vừa có thể làm hạ đường huyết cao do ăn uống, vừa có thể nâng cao trạng thái đường huyết hạ do insulin gây nên. Nhân sâm tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể, tăng cường khả năng thực bào của hệ tế bào võng nội bì, tăng hiệu suất chuyển hóa của tế bào “lâm ba” và globulin IgM, do đó, nâng cao tính miễn dịch của cơ thể.
Lượng ít dịch nhân sâm làm tăng lực co bóp tim của nhiều loài động vật, nếu nồng độ cao thì giảm lực co bóp tim (trên thực nghiệm). Đối với động vật suy tuần hoàn cấp do mất máu nhiều, nhân sâm làm tăng cường độ và tần số co bóp của tim; đối với suy tim, tác dụng tăng cường tim của thuốc càng rõ.
Nhân sâm còn có tác dụng hưng phấn vỏ tuyến thượng thận. Một nhóm nghiên cứu cho rằng, cơ chế là do thông qua vùng dưới đồi và tuyến yên tiết ra chất ACTH làm tăng cAMP của vỏ tuyến thượng thận. Thân và lá của nhân sâm cũng có tác dụng hưng phấn hệ tuyến yên – vỏ tuyến thượng thận.
Nhân sâm còn có tác dụng kích thích hormon sinh dục nam cũng như nữ.
Nó cũng có tác dụng hạ đường huyết. Đối với thực nghiệm, đường huyết cao ở chó, thuốc có tác dụng cải thiện trạng thái chung và hạ đường huyết.
Saponin nhân sâm làm tăng chuyển hóa lipid, tăng cường sự hợp thành sinh vật học cholesterol và lipoprotein trong gan chuột cống thực nghiệm. Nhưng lúc gây mô hình cholesterol cao trên động vật thì nhân sâm có tác dụng làm hạ. Theo các thí nghiệm, nhân sâm có thể ngăn ngừa sự phát sinh cholesterol cao ở thỏ, vì vậy mà ngăn ngừa được sự hình thành xơ vữa động mạch.
Nhân sâm có khả năng làm giảm tác hại của chất phóng xạ. Saponin trong nhân sâm Rh2 có tác dụng ức chế sự sinh trưởng của tế bào ung thư.
Khi nghiên cứu trên thỏ và chuột cho thấy, nhân sâm có tác dụng bảo vệ gan, gia tăng chức năng giải độc của gan. Nhân sâm còn có tác dụng nâng cao thị lực và làm tăng khả năng thích nghi của thị giác đối với bóng tối.
Độc tính của nhân sâm: nếu tiêm thuốc vào dưới da chuột nhắt thì liều độc cấp LD50 là 16,5 ml/kg. Cho chuột nhắt uống nhân sâm theo liều lượng 100, 250, 500 mg/kg liên tục trong 1 tháng và theo dõi nhiễm độc bán cấp không thấy gì thay đổi khác thường. Một nghiên cứu khoa học đã tiến hành tiêm vào dưới da chuột nhắt 1 ml dung dịch nhân sâm nồng độ 20%, kết quả cho thấy, sau 10 – 12 giờ chuột chết với trạng thái mất sắc, nhưng cho uống thì độc tính rất ít.
Kết quả nghiên cứu dược lý
Sau đây là kết quả nghiên cứu dược lý của nhân sâm theo “Những cây thuốc và vị thuốc quý”.
Tác dụng trên hệ thần kinh: từ xưa tại Trung Quốc, người ta đã biết làm thí nghiệm để kiểm chứng tác dụng làm giảm mệt của nhân sâm, Lý Thời Trân trong sách “Bản thảo cương mục” (thế kỷ 16) có ghi: cho hai người cùng chạy, một người ngậm nhân sâm, một người không, sau khi chạy độ 3 – 5 dặm, người không ngậm nhân sâm thở mạnh, còn người ngậm nhân sâm thở bình thường. Trong các năm 1949 – 1951, tại Nga, GS. Abramova làm thí nghiệm theo phương pháp: cho chuột nhắt lội nước và nhận thấy: nhân sâm có tác dụng làm đỡ mệt. Năm 1947, GS. Lazarev đã nghiên cứu và kết luận, nhân sâm có tác dụng làm hưng phấn thần kinh trung ương, dùng với liều điều trị có thể làm đỡ mệt. Năm 1955, Drake theo phương pháp của GS. Zacuxov đã chứng minh, với liều điều trị của nhân sâm có khả năng rút ngắn thời kỳ phản xạ tiềm phục của thần kinh và làm nhanh chuyển động của thần kinh, nhưng liều cao quá có thể gây hiện tượng quá trấn tĩnh.
Tác dụng trên huyết áp và tim: các nhà nghiên cứu Nga đã nghiên cứu nước sắc và cồn nhân sâm và kết luận, tác dụng của dung dịch nước và dung dịch rượu của nhân sâm như sau: dùng dung dịch 5%, 10% và 20% nhân sâm tiêm vào tĩnh mạch thỏ và mèo thấy tác dụng hạ huyết áp, nồng độ càng cao tác dụng ức chế trên tim càng mạnh, nhưng nếu nồng độ thấp thì co bóp tim mạch và số lần co bóp càng tăng. Do đó, họ đã kết luận, nhân sâm có hai hướng tác dụng trên thần kinh thực vật, liều nhỏ tác dụng như thần kinh giao cảm, liều lớn có tác dụng như thần kinh phế vị.
Tác dụng trên hệ hô hấp: năm 1947, GS. Burkrat và GS. Xakxopov đã cho biết: dùng 0,3 – 0,5 ml dung dịch nhân sâm 20% tiêm vào tĩnh mạch mèo, kết quả cho thấy, nhân sâm làm hưng phấn hô hấp. Một số nhà nghiên cứu Nhật Bản và Trung Quốc trước đó đã thử nghiệm tiêm vào tĩnh mạch thỏ chất ginsenin: liều nhỏ làm tăng hô hấp, liều cao có tác dụng ngược lại, nếu tiêm acid panax hay chất panaxen cũng thấy tác dụng như vậy.
Tác dụng đối với chuyển hóa cơ bản: năm 1922, các nhà khoa học Nhật Bản đã nghiên cứu tác dụng của bột nhân sâm và chất tan trong cồn của nhân sâm (uống và tiêm) đối với bệnh đường huyết cao trên thỏ, kết quả: nhân sâm có tác dụng rõ rệt làm hạ đường huyết. Năm 1954 và 1956, một số tác giả Trung Quốc cũng xác nhận tác dụng hạ đường huyết của nhân sâm. Trên lâm sàng, BS. Khâu Trần Ba (năm 1955) nhận thấy, nếu dùng nhân sâm chung với insulin thì thời gian hạ đường được kéo dài và chữa được bệnh.
Tác dụng đối với sự sinh trưởng của động vật: cho uống hoặc tiêm thuốc bào chế bằng nhân sâm, hay các chất lấy từ nhân sâm trên một số động vật, so sánh với số không dùng nhân sâm, thấy trọng lượng con vật tăng lên, thời gian giao cấu của chúng kéo dài, hiện tượng tình dục xuất hiện rõ rệt.
Tác dụng đối với sức chống đỡ bệnh tật: những thí nghiệm của GS. Daugolnikov (1950 – 1952), GS. Brekman, GS. Phruentov (1954 – 1957) và GS. Abramow (1953) cho biết, nhân sâm có tác dụng tăng sức đề kháng của động vật đối với bệnh tật. Nhân sâm có tác dụng phòng chữa bệnh loét dạ dày và viêm cơ tim trên thực nghiệm.
Ứng dụng lâm sàng
Dùng nhân sâm điều trị cấp cứu trong trường hợp bệnh nguy kịch: khí thoát, chân tay lạnh, tự ra mồ hôi, mạch trầm vi tế hoặc trường hợp chảy máu nhiều, gây choáng (suy tuần hoàn cấp), dùng nhân sâm để ích khí cứu thoát, hồi dương cứu nghịch, tùy tình hình chọn các bài:
Độc sâm thang: nhân sâm 4 – 12 g, chưng cách thủy cho uống, nên uống nhiều lần.
Sâm phụ thang: nhân sâm 3 – 6 g, phụ tử chế 4 – 16 g, sắc uống 6 lần. Đối với trường hợp dương hư chân tay lạnh (choáng trụy tim mạch) cần thực hiện đông, tây y kết hợp cấp cứu.
Cấp cứu trẻ sơ sinh trạng thái nguy kịch: mỗi ngày dùng nhân sâm xắt mỏng 3 – 5 g (tương đương 1 g/kg cân nặng/ngày) cho nước 40 – 50 ml chưng 30 phút, uống cứ 3 giờ 1 lần (nhỏ giọt vào miệng), mỗi lần 5 ml, 1 liệu trình 4 – 6 ngày, dài là 10 ngày có phối hợp tây y cấp cứu, thử nghiệm theo dõi 10 ca đều khỏi. Thường sau 2 – 3 lần uống nhân sâm, các triệu chứng đều được cải thiện trên lâm sàng.
Dùng hồng sâm 30 g sắc nước cho uống liên tục đồng thời châm bách hội, hai kim hướng trước sau, cấp cứu 10 ca choáng do mất máu có tác dụng nâng huyết áp.
Dùng nhân sâm, mạch môn, ngũ vị chế thành thuốc tiêm sinh mạch (hàm lượng mỗi ml có 0,57 g thuốc sống), mỗi lần tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch 2 – 4 ml có kết quả tốt đối với nhồi máu cơ tim và choáng do tim.
Trị chứng rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy kéo dài do tỳ vị hư nhược: dùng phối hợp với bạch truật, bạch linh.
Tứ quân tử thang: nhân sâm 4 g, bạch truật 12 g, bạch linh 12 g, cam thảo 4 g, sắc uống.
Trị các loại bệnh phổi: như hen phế quản, viêm phế quản mạn tính, tâm phế mạn, dùng bài nhân sâm định suyễn thang: nhân sâm 8 g (gói sắc riêng), thục địa 20 g, thục phụ phiến 12 g, hồ đào nhục 16 g, tắc kè 8 g, ngũ vị tử 8 g, sắc uống.
Nhân sâm hồ đào thang: nhân sâm 4 g, hồ đào nhục 12 g, sắc uống trị chứng hư suyễn.
Trị bệnh cảm ở người vốn khí hư: dùng bài sâm tô ẩm (cục phương): nhân sâm 4 g (sắc riêng), tô diệp 12 g, phục linh 12 g, cát căn 12 g, tiền hồ 4 g, bán hạ (gừng chế) 4 g, trần bì 4 g, chỉ xác 4 g, cát cánh 4 g, mộc hương 3 g (cho sau), cam thảo 3 g, sinh khương 3 lát, đại táo 2 quả, sắc uống nóng cho ra mồ hôi.
Trị chứng thiếu máu: dùng các bài bổ huyết như tứ vật thang, đương quy bổ huyết thang, gia thêm nhân sâm kết quả tốt hơn.
Trị tiểu đường: thường dùng các thuốc tư âm bổ thận như: thục địa, kỷ tử, thiên môn, sơn thù nhục, dùng bài tiêu khát ẩm: cát lâm sâm 8 g (sắc riêng), thục địa 24 g, kỷ tử 16 g, thiên môn đông 12 g, sơn thù nhục 12 g, trạch tả 16 g, sắc uống.
Dùng độc vị nhân sâm uống: theo một nghiên cứu dùng cao lỏng nhân sâm mỗi lần uống 0,5 ml, ngày 2 lần, liệu trình tùy tình hình bệnh, nếu bệnh nhẹ kết quả rõ, có thể làm hạ đường huyết 40 – 50 mg%, ngưng thuốc có thể kéo dài thời gian ổn định trên 2 tuần, đối với thể trung bình tác dụng hạ đường huyết không rõ, nhưng triệu chứng chung được cải thiện như khát nước giảm, đỡ mệt mỏi.
Trị liệt dương: một nghiên cứu đã dùng nhân sâm trị 27 bệnh nhân, chức năng tình dục được hồi phục hoàn toàn ở 15 bệnh nhân, 9 bệnh nhân chuyển biến tốt, 3 bệnh nhân không kết quả. Ngoài ra, có thể dùng uống nước chiết xuất 500 mg mỗi ngày để trị các trường hợp: liệt dương, tảo tiết, phóng tinh yếu, tình dục giảm, đều có kết quả nhất định.
Trị cao huyết áp và xơ vữa động mạch: các nhà khoa học Nga dùng cồn 20% nhân sâm, mỗi lần 20 giọt điều trị cho nhiều bệnh nhân, ngày 2 lần, đối với các chứng huyết áp cao, xơ vữa động mạch, đau thắt tim, thần kinh tim và hở van tim, đều có kết quả nhất định như cảm giác dễ chịu, bớt khó thở, bớt đau thắt tim, bớt đau đầu, ngủ tốt, điện áp sóng T và R được nâng cao. Ngưng thuốc 6 – 9 tháng, bệnh tình vẫn ổn định.
Nhân sâm có tác dụng làm giảm mỡ trong máu ở người già, nhất là đối với triglycerid, 80% người được thử nghiệm cảm thấy thể lực và trí lực đều tăng, 54% mất ngủ được cải thiện, 40% chứng tinh thần trầm cảm giảm, rối loạn sắc tố da ở người già được cải thiện, bớt rụng tóc.
Dùng trị chứng suy thượng thận (addison): do nhân sâm có tác dụng kháng lợi niệu, nên ảnh hưởng tới chuyển hóa của nước muối như hormon vỏ thượng thận gluco-corticoid. Theo báo cáo của Vương Bản Tường, theo dõi 18 ca, bệnh nhân addison được cho uống cồn chiết xuất thân lá nhân sâm 20% (tương đương 0,5 g thuốc sống/ml); liều 20 – 30 ml, mỗi ngày uống 3 lần và tăng dần liều đến 150 – 300 ml mỗi ngày. Liệu trình bình quân 121 ngày. Sau điều trị, bệnh nhân lên cân, huyết áp được nâng lên, lực nắm bàn tay mạnh hơn, đường huyết lên, natri huyết thanh tăng. Thử nghiệm nước corticoid và ACTH đều được cải thiện, giảm lắng đọng sắc tố ở da, đối với bệnh nhân sớm và ở giai đoạn bù trừ có kết quả tốt, có thể hồi phục khả năng bù trừ, cần dùng kết hợp với corticoid có giảm liều.
Dùng trị tỳ hư trẻ em: theo báo cáo của Từ Hỷ Mai, dùng hồng sâm chữa cho 10 trẻ em nằm viện có các triệu chứng đần độn, ra mồ hôi, sắc mặt tái nhợt, vàng bủng. Điều trị theo phác đồ chung, dùng hồng sâm theo liều: trẻ dưới 3 tuổi: hồng sâm 3 g sắc được 30 ml; trẻ trên 3 tuổi: sắc lấy 60 ml dùng thêm đường mía, chia 2 lần uống trong ngày, một liệu trình 7 – 14 ngày. Thuốc có tác dụng làm trẻ ăn ngon, hết mồ hôi, lên cân, sắc mặt tươi hơn.
Trị bệnh động mạch vành: theo báo cáo của BS. Dụ Hương Quần, dùng hồng sâm chế thành dịch, tiêm hàm lượng 200 mg/2 ml/ống; dùng 6 – 10 ml thuốc trộn với 40 ml gluco 10% tiêm tĩnh mạch, ngày 1 – 2 lần. Tác giả theo dõi 31 ca: đau thắt tim có kết quả 93,54%, điện tâm đồ được cải thiện
Trị chứng giảm bạch cầu: chiết xuất saponin từ thân, rễ, lá nhân sâm chế thành viên, mỗi lần dùng 50 – 100 mg, ngày uống 2 – 3 lần. Một thử nghiệm trị 38 ca hạ bạch cầu do hóa liệu, tỷ lệ kết quả 87%, trên súc vật thực nghiệm cũng chứng minh thuốc có tác dụng tăng bạch cầu rõ rệt và có khả năng kích thích.
Trị viêm gan cấp: theo báo cáo của các nhà khoa học Nga, uống cao lỏng nhân sâm có khả năng làm cho chức năng gan hồi phục nhanh hơn và làm giảm khả năng bệnh chuyển thành mạn tính.
Theo GS. DƯƠNG NẠI NGẠN – Khoa Học Phổ Thông